Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một quá trình được tiếp nối và phát huy qua nhiều thế hệ. Khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” đã được toàn Đảng, toàn dân nêu cao thực hiện. Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Chi bộ Tòa Hình sự sinh hoạt chuyên đề quý II năm 2024 với nội dung tìm hiểu và học tập “Phong cách Hồ Chí Minh”.

I. Phong cách Hồ Chí Minh là gì

Từ Đại hội V năm 1981 trở về trước, Đảng ta thường dùng khái niệm “tác phong” để nói về “tác phong Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, từ “tác phong” mang ý nghĩa hẹp, chỉ nói lên được một mặt là phong cách làm việc, phong cách công tác. Do đó, từ Đại hội VI năm 1986, khái niệm “phong cách” được dùng để thay thế cho khái niệm “tác phong” nhằm nói lên những đặc trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với nhân cách trí tuệ lỗi lạc và đạo đức trong sáng của Người - một vĩ nhân, một nhà văn hóa kiệt xuất. Đó là một phong cách vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực. Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ, bao gồm: phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt.

1. Phong cách tư duy:

- Phong cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại: Quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, kể từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Người không tiếp thu sự vật, sự việc, hiện tượng một cách thụ động mà luôn đi sâu phân tích, so sánh, chắt lọc, lựa chọn, tổng hợp, rút ra những phán đoán, đi tới những kết luận, tìm ra điểm mới, kế thừa và phát triển sáng tạo. Chính vì vậy, Người đã bắt kịp nhịp sống và sự phát triển của thời đại, hình thành tư duy đúng đắn, khoa học và cách mạng, từ đó Người đã lựa chọn đúng đường đi cho dân tộc ta.

- Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo: Đó là phong cách tư duy không giáo điều, rập khuôn, không vay mượn nguyên xi của người khác, tránh đường cũ, lối mòn, tự mình tìm tòi, suy nghĩ, truy đến tận cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý, phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn.

- Phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình: Hồ Chí Minh luôn biết xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ biến, “những lẽ phải không ai chối cãi được” để nhận thức và lý giải những vấn đề của thực tiễn. Người viết rằng: Quyền độc lập, tự do ở nước nào cũng vậy, đều do xương máu của những nghĩa sĩ và đoàn kết của toàn quốc dân mà xây dựng nên.

2. Phong cách làm việc:

Năm 1947, tại chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Những chỉ dẫn của Người trong tác phẩm này cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa thiết thực đối với Đảng ta và mỗi cán bộ, đảng viên trong công cuộc đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Người đã phê phán lề lối làm việc đủng đỉnh, chậm chạp, tự do, tùy tiện, đại khái, sự vụ, theo đường mòn, điệu sáo, lười suy nghĩ, ngại đổi mới, thích phô trương, hoành tráng về hình thức nhưng nghèo nàn, sơ sài về nội dung của nền sản xuất nhỏ. Người nêu gương cho chúng ta về phong cách công tác mới: lấy lợi ích và hiệu quả thiết thực làm chuẩn mực cao nhất để đánh giá tác phong cán bộ và chất lượng công việc. Phong cách làm việc Hồ Chí Minh thể hiện trong những điểm chính sau đây:

- Phong cách làm việc khoa học: Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu làm việc gì cũng phải điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu, để nắm chắc thực chất tình hình, “Đảng có hiểu rõ tình hình, thì đặt chính sách mới đúng”.

- Phong cách làm việc có kế hoạch: Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi làm việc gì cũng phải có chương trình, kế hoạch, từ lớn đến nhỏ, từ dài hạn, trung hạn đến ngắn hạn, từ tháng, tuần đến ngày, giờ nào việc nấy. Vì làm việc có kế hoạch, dù bận trăm công nghìn việc của Đảng và Nhà nước, Người lúc nào cũng ung dung, tự tại, vẫn có thời gian học tập, đọc sách, xem văn nghệ, đi xuống địa phương, đi thăm danh lam, thắng cảnh. Người dạy, trong việc đặt kế hoạch “không nên tham lam, phải thiết thực, vừa sức, từ thấp đến cao”, “chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu, nhưng không thực hiện được”.

- Phong cách làm việc đúng giờ: Chủ tịch Hồ Chí Minh quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Người thường không để ai phải đợi mình, chủ động đến trước nếu có thể.

- Phong cách đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ, đường mòn: Đây là một phong cách không cố chấp, bảo thủ, luôn đổi mới. Người nói: “Tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta... Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”. Cuộc đời Người là một tấm gương tuyệt vời về đổi mới, có sức động viên, khích lệ, gợi mở sự đổi mới, sáng tạo cho mỗi chúng ta.

3. Phong cách lãnh đạo

- Phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Từ việc lớn cho đến việc nhỏ, từ soạn thảo “Tuyên ngôn độc lập” đến viết một bài báo... Người đều tham khảo ý kiến của Bộ Chính trị hay những người xung quanh. Người tuân thủ chặt chẽ quy trình ra quyết định. Mọi vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, khoa học – kỹ thuật... Người đều dựa vào đội ngũ trí thức, chuyên gia trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, yêu cầu chuẩn bị kỹ, trao đổi rộng, sao cho mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải được cân nhắc, lựa chọn thận trọng, để sau khi ban hành, ít phải thay đổi, bổ sung.

- Phải đi đúng đường lối quần chúng, “lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng”. Người yêu cầu và luôn thực hiện lãnh đạo phải tôn trọng nguyên tắc dân chủ, từ dân chủ trong Đảng đến dân chủ trong các cơ quan đại biểu của dân, thực hiện đường lối quần chúng. Người luôn động viên, khuyến khích “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, làm cho “cấp dưới không sợ nói sự thật và cấp trên không sợ nghe sự thật”.

- Phải tổ chức việc kiểm tra, kiểm soát cho tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Sau khi nghị quyết được ban hành, phải tổ chức tốt để nghị quyết đi vào cuộc sống. Hàng ngày, Người đều đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.

- Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo. Nói đi đôi với làm là một nội dung đạo đức truyền thống của dân tộc, kế thừa truyền thống đó, Hồ Chí Minh đã nêu thành một nội dung của tư cách người cách mạng. Người cho rằng: “các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.

4. Phong cách diễn đạt

- Cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực để làm cho lý luận trở nên gần gũi, dễ hiểu với tất cả mọi người. Bởi lẽ, theo Bác, cách mạng là sự nghiệp của hàng chục triệu người lao động, phải nói và viết làm sao để họ hiểu được, dám vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.

- Diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng và sinh động, có lượng thông tin cao. Bác Hồ thường viết ngắn và có khi rất ngắn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, chỉ 9 chữ mà khái quát được cả ba giai đoạn đầy biến động của đất nước. Nhiều câu nói của người đã được đúc kết lại như châm ngôn: “Nước lấy dân làm gốc”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”... Nhờ đó mà những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trở nên dễ nhớ, dễ thuộc và đi vào quần chúng nhân dân. Điều này không phải nhà tư tưởng, nhà lý luận nào cũng đạt được.

- Sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh, ví von, so sánh cụ thể. Khi nói, khi viết, Hồ Chí Minh luôn kết hợp với kể chuyện, đan xen những câu thơ, ca dao có vần điệu, làm cho bài nói, bài viết trở nên sinh động, gần gũi với lối cảm, lối nghĩ của quần chúng. Ví dụ: “con đĩa hai vòi”, “lý luận như cái tên, thực hành như cái đích”, “có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”, người đọc nhiều lý luận mà không biết đem thực hành, vận dụng chỉ là “cái hòm đựng sách”...

- Phong cách diễn đạt luôn biến hóa, nhất quán mà đa dạng. Trên cơ sở thống nhất về mục đích nói và viết, phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh thể hiện rất phong phú, phù hợp với nội dung được trình bày. Đó là sự đanh thép với những số liệu rõ ràng khi tố cáo; sự sôi nổi trong tranh luận; thiết tha trong kêu gọi; ân cần trong giảng giải; sáng sủa trong thuyết phục...

5. Phong cách ứng xử:

- Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp. Trong các cuộc tiếp xúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường khiêm tốn, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác, mà trái lại, luôn hòa nhã, quan tâm chu đáo đến những người xung quanh.

- Chân tình, nồng hậu, tự nhiên. Khi gặp gỡ mọi người, với những cử chỉ thân mật, lời hỏi thăm chân tình, hay một câu nói đùa, Người đã tạo ra một bầu không khí thân mật, thoải mái, thân thiết như trong một gia đình, xóa bỏ mọi nghi thức, đi thẳng đến trái tim con người bằng tình cảm chân thực, tự nhiên, đó là nét nổi bật trong phong cách ứng xử của những nhà văn hóa lớn của mọi thời đại.

- Linh hoạt, chủ động, biến hóa. Ứng xử văn hóa Hồ Chí Minh đạt tới sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm nồng hậu với lý trí sáng suốt, linh hoạt, uyển chuyển, sẵn sàng vì cái lớn mà châm chước cái nhỏ.

- Vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi khoảng cách. Trong văn hóa giao tiếp, ứng xử với mọi người, Hồ Chí Minh luôn xuất hiện với thái độ vui vẻ cùng với sự hóm hỉnh, năng khiếu hài hước, đã xóa đi mọi khoảng cách, những nghi thức trịnh trọng không cần thiết, tạo không khí chan hòa, gần gũi giữa lãnh tụ với quần chúng. Điều đó lý giải vì sao mỗi khi Bác Hồ xuất hiện ở đâu là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cười hồ hởi không dứt.

6. Phong cách sinh hoạt

- Phong cách sống cần kiệm, liêm chính. Sinh ra ở một vùng quê nghèo, một đất nước nghèo, ra đi làm cách mạng trong tư cách một người lao động, phải tự thân vận động để sống và hoạt động, Người đã sớm hình thành cho mình một lối sống, một cách sống rất mực cần cù, giản dị, tiết kiệm.

- Sống hài hòa, nhuần nhuyễn giữa văn hóa Đông – Tây. Đó là phong cách sống vừa thấm nhuần văn hóa Nho – Phật – Lão, vừa chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Âu – Mỹ nhưng luôn giữ vững, yêu quý và tự hào về văn hóa Việt Nam.

- Tôn trọng quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên. Trong sinh hoạt đời thường, Hồ Chí Minh theo triết lý “tôn tự nhiên” của Lão tử. Những người được sống bên Bác đều cho biết: chưa bao giờ thấy Bác phàn nàn về thời tiết, mưa không bực, nắng không than, dung mạo lúc nào cũng vui vẻ, trán không nhăn, mày không nhíu, mát mẻ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân, cứ thuận theo tự nhiên mà sống.

II. Học tập “Phong cách Hồ Chí Minh” tại Chi bộ Tòa Hình sự:

Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh là 03 nội dung lớn, bao quát trên tất cả mọi phương diện và mang ý nghĩa vô cùng to lớn, chuyên đề chỉ đề cập đến “Phong cách Hồ Chí Minh” và lựa chọn một số nội dung trong phong cách của Bác để áp dụng tại Chi bộ Tòa Hình sự.

1. Phong cách tư duy vừa khoa học vừa hiện đại, độc lập, tự chủ, hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình

Cán bộ, đảng viên trong Chi bộ phải thực hành phong cách tư duy vừa khoa học vừa hiện đại, đặc biệt là đối với các Thẩm phán trong nghiên cứu án phải đi sâu phân tích, so sánh, chắt lọc, lựa chọn, tổng hợp để rút ra kết luận phù hợp, không rập khuôn, tránh đường cũ, lối mòn, phải tìm tòi, suy nghĩ, truy đến tận cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tránh việc xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Khi xét xử phải có lý có tình, khi điều khiển phiên tòa phải xử lý các tình huống phát sinh một cách hài hòa, uyển chuyển, tránh gây phiền hà cho người dân đến tham gia phiên tòa.

2. Phong cách làm việc khoa học, có kế hoạch, đúng giờ, đổi mới, sáng tạo

Để đem lại hiệu quả cao trong công việc, đặc biệt là trong việc thực hiện Kế hoạch số 136-KH/ĐU ngày 05/12/2023 của Đảng ủy Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau phát động phong trào “Rút ngắn thời hạn chuẩn bị xét xử”, các Thẩm phán cần phải chủ động sắp xếp lịch nghiên cứu, lịch xét xử cho phù hợp để rút ngắn thời hạn chuẩn bị xét xử, các thư ký giúp việc cho Thẩm phán phải chủ động soạn thảo các văn bản cần thiết, chuyển hồ sơ và gửi tống đạt văn bản nhanh, kịp thời để xét xử đúng lịch. Hạn chế đi trễ, về sớm khi không có lý do chính đáng. Đổi mới phương pháp làm việc sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Luôn lắng nghe ý kiến đóng góp của những người xung quanh, không cố chấp, không bảo thủ.

3. Phong cách lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có kiểm tra giám sát, gương mẫu trong công tác và lối sống

Đối với lãnh đạo, luôn thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; luôn lắng nghe ý kiến của cấp dưới; động viên, khuyến khích cấp dưới đề ra ý kiến; luôn kiểm tra giám sát các cán bộ, đảng viên; luôn gương mẫu, nói đi đôi với làm để cấp dưới noi theo.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.

4. Phong cách diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn, súc tích

Đối với Thẩm phán, khi viết án văn, cần phải có cách diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn, súc tích để khi thi hành thì các cơ quan thi hành án hình sự, dân sự không yêu cầu giải thích bản án do tuyên án khó hiểu hoặc gây hiểu nhầm.

Đối với Thư ký, khi viết biên bản phiên tòa phải trung thực, đúng ý nghĩa của các câu hỏi và trả lời, ghi đầy đủ nội dung, diễn biến của phiên tòa nhưng phải đảm bảo câu chữ rõ ràng, rành mạch, đảm bảo sự vô tư, khách quan, không để sai sót.

5. Phong cách ứng xử

- Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác, kể cả khi bản thân là một người lãnh đạo đơn vị.

- Chân tình, nồng hậu, tự nhiên, thân ái, tạo không khí thân mật, thoải mái để làm việc hiệu quả.

- Linh hoạt, chủ động, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi khoảng cách và những nghi thức trịnh trọng không cần thiết, tạo không khí chan hòa, gần gũi giữa lãnh đạo với quần chúng, giữa cấp trên với cấp dưới nhưng vẫn giữ được sự tôn trọng lẫn nhau.

6. Phong cách sinh hoạt cần kiệm, liêm chính, tiếp thu văn hóa phương tây nhưng vẫn giữ vững thuần phong mỹ tục.

Học tập, rèn luyện theo phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên, nếu thực hiện tốt thì có thể hoàn thiện được chính mình và góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong sự nghiệp cách mạng./.

Chi bộ Tòa Hình sự